Khi một người chỉ có một quả thận hoặc chỉ có một thận làm việc, thận này được gọi là thận đơn độc. Bạn đã biết tại sao bạn có chỉ có một quả thận và bạn nên làm gì để theo dõi sức khỏe của quả thận đơn độc ấy?
Tại sao bạn chỉ có một quả thận?
Có ba nguyên nhân chính khiến cơ thể bạn chỉ có một quả thận duy nhất bao gồm:
- Khuyết tật bẩm sinh. Một số người mắc chứng bất sản thận được sinh ra chỉ có một quả thận duy nhất. Trong khi đó, một số người sinh ra với chứng loạn sản thận có cả hai thận nhưng chỉ một quả thận hoạt động. Nhiều người bị bất sản thận hoặc loạn sản thận không biết mình chỉ có một thận cho đến khi họ chụp X-quang, siêu âm hoặc phẫu thuật cho một bệnh không liên quan.
- Phẫu thuật cắt bỏ một quả thận. Một số người phải cắt bỏ một quả thận để điều trị ung thư hoặc do một bệnh khác hoặc chấn thương. Khi cắt thận, cả niệu quản cũng sẽ được cắt theo.
- Hiến thận. Ngày càng có nhiều người hiến một quả thận để cấy vào một thành viên trong gia đình hoặc bạn bè bị suy thận.
Nói chung, những người có một quả thận đơn độc vẫn sống một cuộc sống đầy đủ, lành mạnh. Tuy nhiên, một số người có nhiều khả năng sẽ mắc một số bệnh thận và cần được theo dõi sức khỏe của quả thận thường xuyên.
Người chỉ có một quả thận cần được theo dõi sức khỏe như thế nào?
Những người có một thận đơn độc nên được kiểm tra thường xuyên bằng xét nghiệm Albumin niệu, độ lọc cầu thận (glomerular filtration rate, viết tắt là: GFR) và theo dõi huyết áp, để phát hiện kịp thời tổn thương thận.
Xét nghiệm albumin niệu
Albumin niệu là nồng độ protein albumin cao trong nước tiểu. Albumin hoạt động giống như một miếng bọt biển, kéo thêm chất dịch từ cơ thể vào máu. Khi albumin rò rỉ vào nước tiểu, máu mất năng lực để hấp thụ chất lỏng dư thừa ra khỏi cơ thể và có thể gây ra phù. Mặc dù tăng albumin trong nước tiểu có thể không gây ra bất kỳ triệu chứng nào, nhưng nó thường là dấu hiệu chỉ ra nguy cơ gia tăng bệnh thận.
Xét nghiệm albumin bằng que thử
Sự hiện diện của albumin trong nước tiểu có thể được phát hiện bằng xét nghiệm dùng que thử nhúng vào một mẫu nước tiểu. Các mẫu nước tiểu được thu thập trong một thùng chứa đặc biệt trong văn phòng bác sĩ và có thể được kiểm tra tại chỗ hoặc được gửi đến phòng thí nghiệm để phân tích.
Trong xét nghiệm này, y tá hoặc kỹ thuật viên sẽ đặt một dải giấy được tẩm các chất hóa học, được gọi là que thử, vào mẫu nước tiểu của bệnh nhân. Vết đốm trên que thử sẽ thay đổi màu khi có protein hiện diện trong nước tiểu.
Định lượng albumin và creatinine
Đây là một phương pháp đo lường chính xác hơn để xác nhận albumin niệu. Để làm xét nghiệm này, bác sĩ cần một mẫu nước tiểu bất kỳ hoặc một mẫu nước tiểu thu thập trong 24 từ bệnh nhân, và sau đó sẽ được gửi đến phòng xét nghiệm để phân tích.
Đối với mẫu nước tiểu bất kỳ, phòng thí nghiệm sẽ đo cả albumin và creatinine, sau đó họ sẽ đi tìm tỷ lệ albumin-và-creatinine trong nước tiểu. Nếu tỉ số này lớn hơn 30 thì gợi ý có bất thường. Với mẫu nước tiểu thu thập trong 24 giờ, phòng thí nghiệm chỉ đo số lượng albumin hiện diện trong nước tiểu. Mặc dù cả hai xét nghiệm đều có hiệu quả, nhưng mẫu nước tiểu bất kỳ sẽ dễ lấy hơn so với mẫu nước tiểu 24 giờ và thường là đủ để chẩn đoán và theo dõi bệnh thận.
Xét nghiệm GFR
Điều dưỡng sẽ lấy máu của bạn, gửi đến phòng thí nghiệm để phân tích và tính toán thận lọc được bao nhiêu máu mỗi phút, được gọi là tốc độ lọc cầu thận ước tính (estimated glomerular filtration rate, viết tắt là: eGFR). Kết quả của xét nghiệm có thể nằm trong các trường hợp sau:
- eGFR 60 hoặc cao hơn là ở mức bình thường
- eGFR dưới 60 có thể báo hiệu tổn thương thận
- eGFR 15 hay thấp hơn có thể báo hiệu suy thận giai đoạn cuối.
Theo dõi huyết áp cao
Huyết áp là áp lực của máu đẩy vào thành mạch máu khi tim bơm ra máu. Huyết áp cao, còn gọi là tăng huyết áp, là sự gia tăng lực ép máu vào các mạch máu di chuyển khắp cơ thể.
Huyết áp được ghi bằng hai số cách nhau bởi một dấu gạch chéo. Ví dụ, một kết quả huyết áp 120/80 nghĩa là “120 trên 80.” Số đầu tiên được gọi là huyết áp tâm thu, đại diện cho áp lực khi tim đập và đẩy máu qua các mạch máu. Số thứ hai được gọi là huyết áp tâm trương, đại diện cho áp lực khi tim nghỉ và các mạch máu thư giãn giữa nhịp tim.
Huyết áp của một người được coi là bình thường nếu nó nằm dưới 120/80. Tiền cao huyết áp là áp lực tâm thu 120–139 hoặc huyết áp tâm trương từ 80–89. Cao huyết áp là áp lực tâm thu là 140 hoặc cao hơn hoặc huyết áp tâm trương là 90 hoặc cao hơn.
Cao huyết áp được chẩn đoán bằng cách đo huyết áp lặp đi lặp lại nhiều lần mỗi khi bạn đi khám bác sĩ, và ở lần nào cũng cho thấy huyết áp liên tục trên 140/90. Bác sĩ đo huyết áp bằng máy đo có băng quấn ở cánh tay. Mọi người cũng có thể mua băng quấn huyết áp ở những nhà thuốc hoặc tiệm dụng cụ y khoa để theo dõi huyết áp tại nhà.
Huyết áp cao có thể làm hỏng các mạch máu trong thận, làm giảm chức năng thận. Thận bị hư hỏng sẽ mất khả năng loại bỏ muối và nước dư thừa, gây ra tăng huyết áp và hơn nữa là tạo ra một vòng luẩn quẩn nguy hiểm đến sức khỏe của bạn.