Nhồi máu não là loại đột quỵ xảy ra do thiếu sự cung cấp máu lên não. Nó khác biệt với đột quỵ do xuất huyết (bắt nguồn từ tình trạng chảy máu não). Khoảng 70% đến 80% những cơn đột quỵ là nhồi máu não trong khi một số khác thì có các đặc điểm của cả nhồi máu não và xuất huyết não, số còn lại là xuất huyết não.
Thiếu máu cục bộ có thể xảy ra ở bất kỳ bộ phận nào của cơ thể, bao gồm cả não, bệnh xảy ra khi cục máu đông ngăn không cho máu chảy từ động mạch tới các bộ phận của cơ thể.
Máu chảy qua động mạch mang theo các hồng cầu vận chuyển khí oxy đến các tế bào lân cận. Máu chảy qua động mạch cũng mang theo nước, chất dinh dưỡng và khoáng chất đến tất cả các tế bào trong cơ thể cũng như loại bỏ các chất thải dư thừa. Vì vậy, sự gián đoạn cung cấp máu sẽ gây nên những hậu quả nghiêm trọng vì mỗi tế bào trong cơ thể cần khí oxy, nước, chất dinh dưỡng và khoáng chất để tồn tại. Nhồi máu có thể xảy ra ở bất cứ bộ phận nào trong cơ thể và khi nó diễn ra ở não, nó được gọi là nhồi máu não.
Những tác động mà nhồi máu não có thể gây ra?
Thông thường nếu tình trạng thiếu máu kéo dài hơn vài phút, những thay đổi sinh học có hại sẽ diễn ra. Những thay đổi sinh học có hại này gây tổn thương não thông qua một quá trình gọi là sự nhồi máu. Một cơn nhồi máu não sẽ dẫn đến những thay đổi về cấu trúc và chức năng của các tế bào não. Những thay đổi do viêm và sự phát tán các độc tố phá hủy các tế bào cùng với sự tiết ra quá nhiều dịch vào mô não sẽ nên chèn ép não và chèn các mạch máu khác.
Vùng não bị nhồi máu bắt đầu chịu các tổn thương về mặt hóa học trong vòng vài phút sau khi bị thiếu máu. Tình trạng này trở nên nặng hơn trong vòng vài tiếng, và tiếp tục tiến triển trong vòng hơn 24 đến 48 tiếng. Cuối cùng vùng não bị ảnh hưởng sẽ tổn thương vĩnh viễn nếu lưu lượng máu không được khôi phục. Vì vậy, việc nhận ra kịp thời các triệu chứng đột quỵ và cấp cứu kịp lúc có thể mang lại sự sống và ngăn ngừa những tàn tật nghiêm trọng từ cơn đột quỵ.
Khi một vùng não bị nhồi máu, bệnh nhân sẽ mắc phải các triệu chứng thần kinh vì vùng não bộ bị tổn thương sẽ bị suy giảm các chức năng của nó. Các triệu chứng thần kinh thường tương ứng với vùng bị tổn thương của não.
Các xét nghiệm hiện nay cho phép các bác sĩ quan sát chi tiết hơn và hiểu rõ hơn về quá trình thiếu máu cục bộ, giúp phát triển những phương pháp chữa trị tốt hơn để bảo vệ mô thần kinh cho các bệnh nhân đột quỵ. Việc nghiên cứu trong lĩnh vực bảo vệ mô thần kinh khi đột quỵ xảy sẽ đem lại nhiều phương pháp để làm giảm hoặc loại bỏ hoàn toàn những biến chứng gây ra do đột quỵ.
Thiếu máu não thoáng qua là gì?
Khi cơn thiếu máu não cục bộ diễn ra và sau đó nhanh chóng phục hồi, hay nói cách khác là chúng ta bị đột quỵ tạm thời, thường được gọi là đột quỵ thể nhẹ. Đây được gọi là cơn thoáng thiếu máu não hay TIA, vì sự thiếu máu chỉ thoáng qua và không kéo dài đủ lâu để gây nên những tổn thương lâu dài. Tuy nhiên, nếu bạn bị thiếu máu não thoáng qua, thì đây là một dấu hiệu cảnh báo cho thấy bạn có nguy cơ bị đột quỵ và cần phải được khám và điều trị ngay lập tức.
Các yếu tố nguy cơ đối với nhồi máu não là gì?
Các yếu tố nguy cơ đối với nhồi máu não là những căn bệnh làm gia tăng khuynh hướng hình thành cục máu đông bất thường hoặc bất kỳ căn bệnh nào gây tổn thương đến lớp lót trong của động mạch não (mạch máu não), khiến cho chúng bị tắc nghẽn. Bệnh tim, cholesterol cao, hút thuốc lá, bệnh mạch máu não, cao huyết áp, bệnh tiểu đường kiểm soát kém và chứng rối loạn đông máu là tất cả những yếu tố rủi ro dẫn đến nhồi máu não.
Các phương pháp nào được dùng để chữa trị đột quỵ do thiếu máu cục bộ?
Điều trị khẩn cấp đối với đột quỵ do thiếu máu cục bộ bao gồm kiểm soát huyết áp, lượng đường trong máu và đôi khi cần phải truyền các yếu tố đông máu. Điều trị dài hạn đối với đột quỵ do thiếu máu cục bộ bao gồm việc duy trì huyết áp tối ưu, quản lý các bệnh tim mạch, kiểm soát lượng đường trong máu, hạ cholesterol và nếu có thể thì dùng các chất chống đông máu để ngăn ngừa sự phát triển của các cục máu đông gây hại. Một số thói quen, chẳng hạn như chế độ ăn uống, tập thể dục và hút thuốc có thể tác động lớn đến khả năng bị nhồi máu não.