Dịch tễ học
Nang gan thường không có triệu chứng và đa số được phát hiện tình cờ. Vì thế, tần suất mắc bệnh thật sự rất khó dự đoán. Một nghiên cứu ở Na Uy trên dân số bệnh nhân của một bệnh viện đại học sử dụng siêu âm để chẩn đoán ghi nhận tỉ lệ mới mắc của nang gan là 11,3% (12,5% ở nữ và 9,7% ở nam), không ghi nhận bệnh nhân nào dưới 40 tuổi.
Những tổn thương dạng nang ở gan bao gồm:
- Nang đơn giản.
- Bệnh gan đa nang.
- U nang (Nang tân sinh).
- Nang sán (ký sinh trùng echinococcus).
- Áp-xe gan.
Những tổn thương dạng nang khác xuất hiện trong gan nhưng được phân loại thành nhóm khác do chúng có liên quan đến đường mật. Những tổn thương này bao gồm:
- Nang đường mật.
- Nang ống mật chủ: là sự dãn bẩm sinh một phần hay toàn bộ ống mật chủ.
- Nang trong bệnh Caroli: bệnh Caroli là sự kết hợp của sự dãn dạng nang của đường mật trong gan và bệnh thận đa nang ở trẻ em. Đây là bệnh lý di truyền theo gene lặn trên nhiễm sắc thể thường. Nó có thể biểu hiện bởi sốt, đau bụng và những đợt viêm đường mật tái phát.
Nang đơn giản
Sinh lý bệnh: những nang này được xem là do bẩm sinh. Nang đơn giản được lót bởi biểu mô cùng loại với đường mật nhưng dịch trong nang không chứa mật. Bởi vì dịch nang được bài tiết liên tục, do đó nang tái lập sau khi chọc hút hoặc dẫn lưu.
Triệu chứng: Nang đơn giản thường không có triệu chứng, nó có thể gây đau 1/4 bụng trên phải và bụng to lên nếu nang lớn. Nếu nang quá lớn, có thể được sờ thấy qua khám bụng. Vỡ, xoắn nang hoặc vàng da được gây ra bởi tắc nghẽn ống mật rất hiếm gặp.
Chẩn đoán: Chụp siêu âm, CT scan (chụp cắt lớp điện toán) và MRI (cộng hưởng từ) có thể cho thấy hình ảnh giải phẫu của nang. Chức năng gan có thể bất thường nhẹ.
Điều trị: Có nhiều lựa chọn bao gồm đợi tự lành hoặc nếu có triệu chứng thì chọc hút hoặc gây xơ hóa. Mổ nội soi ổ bụng hoặc mổ hở để mở thông nang (fenestration) có thể hiệu quả hơn nhưng có tỉ lệ thương tật và tử vong cao hơn.
Tiên lượng: Thông thường là bệnh tự lành. Những nang có triệu chứng đáp ứng tốt với điều trị.
Bệnh gan đa nang
Sinh lý bệnh: Bệnh gan đa nang ở người lớn là bệnh lý bẩm sinh thường kèm theo bệnh thận đa nang và thường liên quan đến di truyền theo gene trội trên nhiễm sắc thể thường với sự đột biến ở gene PRKCSH và SEC63 hoặc gene PKD1 và PKD2. Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về những khiếm khuyết trên các gene này.
Triệu chứng: Nang thận thường xuất hiện trước nang gan và bệnh thận mạn cũng thường gặp. Tuy nhiên, bệnh gan đa nang hiếm khi dẫn đến xơ hóa gan và suy gan. Gan to và đau bụng có thể xuất hiện. Những nang thường được phát hiện trong giai đoạn dậy thì. Vỡ, xuất huyết và nhiễm trùng nang thường hiếm gặp.
Chẩn đoán: Kiểm tra cấu trúc và chức năng thận cần được thực hiện. Chức năng gan có thể bất thường nhưng suy gan thì hiếm. Chụp siêu âm, CT scan và MRI giúp chẩn đoán gan đa nang.
Điều trị: Chỉ cần thiết khi có triệu chứng. Giống như với nang gan đơn giản, các chọn lựa điều trị bao gồn chọc hút, xơ hóa. Ghép gan cũng thỉnh thoảng được thực hiện.
Tiên lượng: Một nghiên cứu đã báo cáo tỉ lệ tái phát sau chọc hút–xơ hóa là 19%. Nhiễm trùng nang có thể dẫn đến một diễn tiến không gây đau với nguy cơ tái phát cao.
U nang (Nang tân sinh)
U nang tuyến và ung thư nang tuyến thường hiếm gặp. U nang tuyến là một tổn thương tiền ung thư.
Triệu chứng: Thường không triệu chứng hoặc triệu chứng (không rõ ràng) bao gồm trướng bụng, buồn nôn và cảm giác no. Đau bụng và tắc nghẽn đường mật có thể xuất hiện nếu u lớn.
Chẩn đoán: Chức năng gan có thể bình thường. Nồng độ kháng nguyên carbohydrate (CA) 19-9 có thể tăng. Nó có thể được đo trong dịch nang. Những dạng điển hình có thể được thấy trên CT scan. MRI và siêu âm tăng cường cũng có thể có ích.
Điều trị: Cắt bỏ khối u. Ung thư nang tuyến vẫn có thể tái phát sau khi được cắt hoàn toàn.
Nang sán (do Ký sinh trùng Echinoccocus)
Sinh lý bệnh: Nang này được hình thành bởi sự nhiễm ký sinh trùng Echinococcus granulosus – một loại sán dải. Động vật ăn thịt như chó và chó sói được xem là vật chủ chính. Chúng thải trứng sán ra ngoài qua phân và sau đó trứng có thể nhiễm vào cừu, các loại trâu bò hoặc con người. Ấu trùng sau đó xâm nhập vào đường tiêu hóa và mạch máu mạc treo của ký chủ trung gian và có thể đi vào trong gan.
Tại gan, ấu trùng lớn lên và nang sán phát triển, hình thành các nang con. Những động vật ăn thịt khác ăn gan của ký chủ trung gian cũng có thể bị nhiễm và sán trưởng thành có thể phát triển trong đường tiêu hóa. Loại ký sinh trùng này có thể tìm thấy ở khắp nơi trên thế giới. Người bị nhiễm thường gặp ở những người nuôi cừu hoặc các loại trâu, bò hoặc ở những người tiếp xúc với chó.
Triệu chứng: Bệnh nhân có thể không có triệu chứng trong nhiều năm hoặc có thể xuất hiện với đau ở hạ sườn phải. Những nang lớn có thể vỡ vào trong đường mật gây vàng da hoặc viêm đường mật, vỡ xuyên qua cơ hoành vào trong ngực, hoặc vỡ vào trong ổ bụng gây sốc phản vệ. Nhiễm trùng thứ phát và áp-xe gan có thể do sự vỡ nang sán. Nang sán có thể hình thành ở phổi và các cơ quan khác.
Chẩn đoán: Bạch cầu ưa acid (eosinophils) có thể tăng. Kháng thể kháng echinococcus thường dương tính trong 80% trường hợp. Dương tính giả và âm tính giả có thể gặp. Hình ảnh điển hình của nang sán có thể được thấy trên CT scan và MRI (những nang con nằm trong một nang chính có thành dày).
Điều trị: Điều cần thiết là ngăn ngừa những biến chứng do nang lớn và vỡ nang. Điều trị bao gồm sử dụng các thuốc như albendazole hoặc mebendazole, chọc hút qua da và phẫu thuật.
Xem thêm bài Áp-xe gan nguyên nhân và phương pháp điều trị của BS.TS. Phạm Nguyên Quý và BS. Võ Huy VănTài liệu tham khảo
http://www.patient.co.uk/doctor/Liver-Abscesses-and-Cysts.htm