Trước đây, người bị ung thư phổi giai đoạn 2 thường có tỷ lệ sống sót trung bình không cao. Tuy nhiên, những phương pháp điều trị mới đã giúp kéo dài thời gian sống cũng như cải thiện chất lượng cuộc sống.
Ung thư phổi giai đoạn 2 thường là loại ung thư phổi không tế bào nhỏ vẫn còn ở giai đoạn cục bộ, khi đó bạn đã xuất hiện khối u ở trong phổi và có thể lan đến các hạch bạch huyết xung quanh nhưng chưa di căn rộng hơn. Khi khối u lan rộng ra ngoài được gọi là ung thư phổi tiến triển. Khoảng 30% người bệnh ung thư phổi được chẩn đoán khi họ ở giai đoạn 1 hoặc 2 và có tiên lượng sống tốt hơn đáng kể so với giai đoạn sau của bệnh.
Yếu tố ảnh hưởng đến tuổi thọ người ung thư phổi giai đoạn 2
Tiên lượng sống của người bệnh ung thư phổi giai đoạn 2 có thể khác nhau đáng kể tùy từng người. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng này bao gồm:
- Loại và vị trí ung thư phổi cụ thể: ung thư phổi giai đoạn 2 bao gồm ung thư ở phổi và các tế bào ung thư nhỏ đã lan đến hạch bạch huyết, hay các tế bào ung thư lớn hơn nhưng chưa lan rộng.
- Tuổi tác: những người trẻ tuổi mắc ung thư phổi có cơ hội sống kéo dài hơn so với người bệnh đã lớn tuổi.
- Giới tính: tuổi thọ của phụ nữ bị ung thư phổi ở mỗi giai đoạn ung thư phổi cao hơn so với đàn ông.
- Sức khỏe chung tại thời điểm chẩn đoán: nếu bạn khỏe mạnh toàn diện tại thời điểm chẩn đoán sẽ giúp kéo dài thời gian sống cũng như khả năng chịu đựng các phương pháp điều trị.
- Khả năng đáp ứng điều trị: tác dụng phụ của các phương pháp điều trị như phẫu thuật, hóa trị, liệu pháp nhắm mục tiêu và xạ trị khác nhau giữa những người khác nhau và có thể hạn chế khả năng chịu đựng điều trị của bạn.
- Các tình trạng sức khỏe khác: các tình trạng bệnh khác như khí phế thũng hoặc bệnh tim có thể làm giảm tuổi thọ ở người ung thư phổi giai đoạn 2.
- Biến chứng của ung thư phổi: các biến chứng như cục máu đông có thể làm giảm thời gian sống của người bệnh.
- Hút thuốc: tiếp tục hút thuốc sau khi chẩn đoán ung thư phổi giai đoạn 2 dường như sẽ làm giảm tỷ lệ sống.
Khả năng sống của người ung thư phổi giai đoạn 2
Tỷ lệ sống sót trung bình (tỷ lệ người bệnh dự kiến sống được khoảng 5 năm sau khi được chẩn đoán mắc bệnh) khi ung thư phổi giai đoạn 2 là khoảng 30%. Đối với những người bệnh có khối u lớn và chưa lan đến bất kỳ hạch bạch huyết nào, tỷ lệ sống sót có thể cao hơn.
Tuy nhiên, thống kê trên chỉ đánh giá dựa trên các số liệu trong quá khứ. Hiện nay, nhiều phương pháp điều trị ung thư phổi đã được phê duyệt trong giai đoạn 2011–2015 mang đến cho người bệnh nhiều cơ hội hơn rất nhiều.
Cải thiện khả năng sống cho người ung thư phổi giai đoạn 2
Tỷ lệ sống sót trung bình của người bệnh ung thư phổi giai đoạn 2 đang ngày được cải thiện, không chỉ nhờ vào những phương pháp điều trị mới.
Nếu bạn mắc phải ung thư phổi, hãy hỏi bác sĩ về cấp độ di truyền phân tử của khối u. Các liệu pháp nhắm mục tiêu (liệu pháp điều trị trúng đích) cho những người bị đột biến gen EGFR, sắp xếp lại ROS1 và sắp xếp lại ALK đã và đang thay đổi khả năng điều trị bệnh ung thư phổi. Liệu pháp miễn dịch cũng đang tạo nên những hy vọng với hai loại thuốc mới được phê duyệt vào năm 2015, ngay cả đối với những người mắc bệnh ung thư tiến triển. Ngoài ra, bạn cũng nên xem những lời khuyên giúp cải thiện cuộc sống cho bệnh ung thư phổi mà bác sĩ có thể chưa đề cập đến.
Bài viết liên quan: “Liệu pháp điều trị trúng đích: Cơ hội chữa trị ung thư vú và ung thư phổi“.
Cải thiện chất lượng cuộc sống cho người ung thư phổi giai đoạn 2
Thông thường, khi nhìn thấy sự tiến triển của bệnh ung thư phổi, mọi người sẽ nghĩ liệu ung thư phổi giai đoạn 2 sống được bao lâu. Tuy nhiên, những tiến bộ y khoa cũng giúp cải thiện chất lượng cuộc sống đáng kể cho những người mắc bệnh ung thư phổi.
Đối với người bị ung thư phổi giai đoạn 2, phẫu thuật thường là một lựa chọn điều trị (có thể có hoặc không các phương pháp điều trị bổ trợ như hóa trị và xạ trị). Trước đây, phẫu thuật ung thư phổi được thực hiện thường xuyên thông qua phẫu thuật cắt bỏ phổi, bác sĩ tiến hành một vết mổ lớn ở ngực và có liên quan đến việc tách xương sườn. Hiện nay, phẫu thuật xâm lấn tối thiểu có thể thay thế và ít rủi ro hơn.
Phẫu thuật với hỗ trợ quay video, bác sĩ chỉ tạo một vết mổ nhỏ ở thành ngực. Sau đó, phần ung thư của phổi (hoặc thùy) được loại bỏ bằng cách sử dụng các thiết bị y tế đặc biệt.
Những người trải qua phẫu thuật với hỗ trợ quay video sẽ nhập viện trong thời gian ngắn hơn và ít có khả năng phát triển hội chứng đau sau phẫu thuật như khi phẫu thuật lồng ngực.
Đối với những người tiến hành xạ trị sau phẫu thuật, việc điều trị cũng được cải thiện hơn. Các kỹ thuật bức xạ mới cũng ít gây tổn thương mô hơn bình thường.