Đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện về mối liên hệ giữa đậu nành và bệnh ung thư vú. Những nghiên cứu gần đây cho rằng tiêu thụ đậu nành với mức độ của người châu Á có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư này. Thực hư về lợi và hại của đậu nành với bệnh ung thư vú là gì?
Ngoài ra, một lượng đậu nành hợp lý trong bữa ăn hàng ngày còn được mọi người cho rằng có thể giảm thiểu nguy cơ tử vong và tái phát ung thư ở những bệnh nhân đã được chữa khỏi ung thư vú. Vậy, những ý kiến trên có hoàn toàn đúng?
Đậu nành đóng vai trò dinh dưỡng gì với cơ thể phụ nữ?
Đậu nành là một loại cây có nguồn gốc từ châu Á và hiện được trồng tại nhiều nơi trên thế giới. Hạt của cây này – hạt đậu nành có thể dùng ăn nguyên vẹn (như món đậu xào) hoặc dùng để chế biến ra nhiều loại thực phẩm khác như đậu hũ, canh đậu tương, sữa đậu nành, nước tương. Bột và protein đậu nành cũng được dùng để thêm vào thành phần các thực phẩm khác như bánh mì, ngũ cốc dinh dưỡng để bổ sung năng lượng cần thiết.
Đậu nành chứa một lượng lớn isoflavone – một chất có hoạt tính tương tự như kích tố nữ estrogen. Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy isoflavone đôi khi đóng vai trò như estrogen thúc đẩy khối u tăng dần nhưng đôi khi chúng lại chống lại hoạt động của estrogen. Vì estrogen đóng vai trò trung tâm trong quá trình phát triển tế bào ung thư cũng như điều trị ung thư vú nên đã có rất nhiều nghi vấn đặt ra xung quanh những lợi và hại của đậu nành đối với bệnh ung thư vú.
Liệu đậu nành có tăng nguy cơ mắc ung thư vú?
Sau nhiều nghiên cứu và khảo sát, các chuyên gia ngày nay đã có thể tự tin khẳng định rằng, hấp thụ một lượng đậu nành hợp lý trong chế độ ăn hàng ngày không làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú.
Vậy đậu nành có giúp giảm nguy cơ mắc và tái phát ung thư vú?
Mặc dù vẫn cần nhiều nghiên cứu hơn trong tương lai đưa ra dữ liệu cho chúng ta kiểm chứng, khả năng này không phài hoàn toàn là không có. Kết quả của những phân tích trong các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng, những phụ nữ ăn nhiều đậu nành có nguy cơ mắc ung thư vú ít hơn 25% so với những phụ nữ ăn ít loại thực phẩm này.
Tuy nhiên, kết quả này chỉ xuất hiện các nghiên cứu ở phụ nữ châu Á mà không xảy ra với các khu vực khác. Điều đó chứng tỏ, lợi ích thật sự chỉ đến khi có sự kết hợp của nhiều yếu tố khác ngoài chế độ ăn giàu đậu nành và ăn từ sớm như phụ nữ châu Á. Bởi đậu nành chính là nguồn cung cấp protein chính, nên họ ít tiêu thụ thịt gà, bò, heo, từ đó làm giảm lượng mỡ động vật cũng như các tạp chất nguy hiểm khác như hormone tăng trưởng, kháng sinh vào cơ thể.
Ngoài ra, so với nữ giới ở Mỹ thì phụ nữ châu Á ăn nhiều rau quả tươi hơn, ít thừa cân, vận động nhiều và ít tiêu thụ rượu bia hơn. Tất cả những yếu tố trên đều góp phần vào việc tạo nên một lối sống lành mạnh làm giảm nguy cơ ung thư vú ở các phụ nữ châu Á.
Một chế độ dinh dưỡng giàu đậu nành cũng có thể tăng cơ hội sống sót và giảm nguy cơ tái phát ở các bệnh nhân mắc ung thư vú. Những bằng chứng gần đây cũng cho thấy nếu một phụ nữ ăn ít nhất 10mg đậu nành mỗi ngày có nguy cơ tái phát ung thư ít hơn 25% so với những phụ nữ ăn ít hơn 4mg/ngày.
Tuy nhiên, đậu nành vẫn chưa phải là thực phẩm được khuyên dùng cho mục đích giảm tái phát ung thư vú. Nguyên do là vì nhiều nghiên cứu và kết luận cần phải được thực hiện xoay quanh chủ đề này hơn như nghiên cứu sâu về các loại đậu nành khác nhau hay tìm hiểu tại sao đậu nành lại là một thực phẩm lành mạnh hơn những thực phẩm khác.
Lời khuyên cho bạn
Cho đến khi vấn đề được làm rõ, nhiều chuyên gia đưa ra lời khuyên rằng những chị em nào đang trị liệu bằng hormone hoặc mắc ung thư vú dương tính với thụ thể estrogen hãy tránh các phụ phẩm từ đậu nành bởi vì chúng chứa nhiều hoạt tính isoflavone. Nhưng nhìn chung, nếu hấp thụ một lượng đậu nành hợp lý trong khẩu phần ăn thì không thành vấn đề. Nếu bạn thuộc một trong những đối tượng trên và vẫn đang lo lắng về tác động của những hợp chất estrogen ấy đối với cơ thể, hãy đến gặp bác sĩ để được tư vấn những lời khuyên đúng đắn và khoa học nhất.