Có khi nào bạn gặp một người bệnh mắt vẫn mở to nhìn người đi lại gần nhưng khi ai đó gọi tên thì không hề có phản ứng gì? Đó chính là trường hợp của những người “sống thực vật” vẫn được giới y học quan tâm bấy lâu nay.
Sống thực vật là hậu quả của những tổn thương não nghiêm trọng, rối loạn thoái hóa thần kinh, rối loạn trao đổi chất hoặc bất thường bẩm sinh trong não bộ. Tình trạng này được đặc trưng bởi sự mất nhận thức nhưng người bệnh vẫn mở mắt và có thể cử động con ngươi.
Hãy cùng Chúng tôi tìm hiểu về tình trạng sống thực vật và liệu có hy vọng nào giúp bệnh nhân hồi tỉnh không nhé.
Sống thực vật là như thế nào?
Sống thực vật là một tình trạng mãn tính khi cơ thể vẫn còn duy trì được huyết áp, nhịp thở và các chức năng tim mạch nhưng khả năng nhận thức thì đã không còn. Các chức năng của thân não và vùng tủy não vẫn còn hoạt động để hỗ trợ cho các hoạt động hô hấp và tự chủ đủ để duy trì sự sống.
Nguyên nhân phổ biến nhất gây ra tình trạng sống thực vật là chấn thương sọ não hoặc thiếu oxy não. Tuy nhiên, bất kỳ tổn thương não nào cũng có khả năng gây ra trạng thái sống thực vật.
Vỏ não bị tổn thương nghiêm trọng nhưng hệ lưới hoạt hóa thần kinh (RAS) vẫn còn duy trì chức năng hoạt động. Phản xạ ở khu vực trung não (não trung gian) có thể hoặc không thể được ghi nhận nhưng bệnh nhân không còn khả năng tự nhận thức.
Thông thường, tình trạng sống thực vật kéo dài trên một tháng được xem là sống thực vật vĩnh viễn. Tuy nhiên, trong một số rất ít trường hợp, bệnh nhân có thể dần hồi phục và chuyển sang trạng thái ý thức tối thiểu.
Đặc điểm của người sống thực vật
Một người sống trong trạng thái thực vật có thể mở mắt, thức dậy và ngủ một cách đều đặn. Trường hợp này vẫn có những phản xạ cơ bản như chớp mắt khi giật mình vì một tiếng động lớn hoặc cử động tay khi bị bóp mạnh. Người bệnh cũng có khả năng tự điều chỉnh nhịp tim và nhịp thở mà không cần sự trợ giúp.
Tuy nhiên, người sống thực vật không thể hiện phản ứng tương tác nào như mở mắt dõi theo một vật thể hay trả lời bằng giọng nói. Trải nghiệm cảm xúc và chức năng nhận thức về bản thân hoặc môi trường cũng không tồn tại ở người sống đời sống thực vật.
Người sống thực vật không còn phản ứng có chủ đích đối với các yếu tố kích thích từ bên ngoài nhưng vẫn còn một số dấu hiệu còn khả năng xuất hiện như:
- Bị giật mình bởi âm thanh lớn
- Chảy nước mắt, cười hoặc nhăn mặt
- Mở mắt, phản ứng đồng tử, phản xạ cơ mắt
- Mở mắt khi có đèn nhấp nháy chiếu vào mắt
- Phản xạ thân não phức tạp (ngáp, nhai, nuốt)
- Thức – ngủ theo chu kỳ (nhưng không phản ánh nhịp sinh học)
Sống thực vật thể hiện sự mất hết ý thức và không còn bất cứ phản ứng nào với mọi kích thích. Người sống thực vật không nghe, không nói, không cử động, không tự ăn uống, không thể khống chế việc đại tiện và tiểu tiện.
Khả năng hồi phục cho người sống thực vật
Một số bệnh nhân sống thực vật có thể cải thiện tình trạng từ từ, trong khi số khác ở trong trạng thái suy yếu nhận thức rất nhiều năm. Cơ hội hồi phục phụ thuộc vào mức độ tổn thương não và độ tuổi. Những bệnh nhân trẻ thường có cơ hội phục hồi tốt hơn so với người lớn tuổi hơn.
Thông thường, các trường hợp chấn thương sọ não sau khi rơi vào tình trạng thực vật có khả năng tỉnh lại trong vòng 6 tháng đầu. Người lớn có khoảng 50% cơ hội và trẻ em có 60% cơ hội phục hồi ý thức.
Đối với các chấn thương gây ra do đột quỵ, tốc độ hồi phục thường sẽ rơi vào năm đầu tiên. Sau giai đoạn này, khả năng người sống thực vật tỉnh lại là rất thấp. Thậm chí, hầu hết những bệnh nhân hồi phục ý thức đều gặp phải tình trạng khuyết tật đáng kể. Bệnh nhân sống đời sống thực vật càng lâu thì khả năng bị khuyết tật càng cao.
Giải pháp điều trị cho người sống thực vật
Người bệnh cần được liên tục đánh giá tình trạng bệnh bằng thang đo lường các dấu hiệu tiến triển, cải thiện hoặc suy giảm bệnh như Coma Recovery Scale (Thang đo mức độ hồi phục sau hôn mê).
Người sống thực vật thường cần phải được theo dõi và hỗ trợ trong việc ăn uống, vệ sinh, vận động bình thường và các bài tập vật lý trị liệu. Quá trình điều trị không đảm bảo cơ hội hết bệnh hoàn toàn cho bệnh nhân nhưng các giải pháp hỗ trợ sẽ mang lại cơ hội cải thiện bệnh tốt nhất:
- Làm sạch răng miệng mỗi ngày
- Vệ sinh cơ thể người bệnh sạch sẽ
- Cố gắng giao tiếp với người bệnh
- Tập thể dục cho khớp để ngăn co cứng khớp
- Hỗ trợ dinh dưỡng cho người bệnh qua ống truyền
- Xoay trở người bệnh thường xuyên để tránh viêm loét
Trong một số trường hợp, điều trị dược lý bằng các chất kích hoạt như thuốc chống trầm cảm ba vòng (tricyclic antidepressant) hoặc methylphenidate hay cách kích thích não sâu có thể được áp dụng. Ngoài ra, cách kích thích tạo tương tác lặp lại thường xuyên, khoảng 6 giờ mỗi ngày, cũng nhiều khả năng sẽ mang lại hy vọng thức tỉnh người bệnh như:
• Kích thích thị giác: Đưa cho người sống thực vật xem hình ảnh của bạn bè hay người thân trong gia đình, xem một bộ phim người đó tâm đắc.
• Kích thích thính giác: Trò chuyện thường xuyên với người bệnh hay mở một bản nhạc người đó ưa thích.
• Kích thích khứu giác: Cắm một loại hoa có mùi hương thoang thoảng hay xịt mùi nước hoa mà người sống thực vật trước kia hay dùng.
• Kích thích xúc giác: Thường xuyên nắm lấy tay người bệnh và vuốt ve hay dùng nhiều chất liệu vải khác nhau để chạm lên da họ.
Chính những người chăm sóc là chìa khóa quyết định lớn đến quá trình hồi phục của người sống thực vật thông qua kích thích đến các giác quan của người bệnh thường xuyên.
Thực tế, dù rất hiếm nhưng vẫn có những trường hợp một người chợt tỉnh giấc sau nhiều năm nằm liệt giường bất động. Câu chuyện của những người sống thực vật thật sự có thể xem là một phép nhiệm màu. Tuy nhiên, cùng với sự tiến bộ của y học và sự kiên trì của người thân thì hy vọng cho người sống thực vật vẫn rất đáng trông đợi.
Tuyết Trinh | HELLO BACSI