Rối loạn lo âu

(3.51) - 46 đánh giá

Định nghĩa

Thỉnh thoảng lo âu là điều bình thường trong cuộc sống. Bạn có thể cảm thấy lo âu khi gặp phải một vấn đề trong công việc, trước khi thi cử hoặc đưa ra một quyết định quan trọng. Nhưng rối loạn lo âu liên lụy nhiều hơn các lo lắng hay sợ hãi tạm thời. Người bị chứng rối loạn lo âu thì sự lo âu không mất đi mà có thể ngày càng tồi tệ hơn. Những cảm giác này có thể ảnh hưởng tới những hoạt động hàng ngày, ví dụ như công việc, học tập và trong các mối quan hệ. Có nhiều loại rối loạn lo âu khác nhau. Có thể kể tới những loại như rối loạn lo âu lan tỏa, rối loạn hoảng sợrối loạn lo âu xã hội.

Dấu hiệu và triệu chứng

Rối loạn lo âu lan tỏa

Người bị rối loạn lo âu lan tỏa thường hay lo âu quá mức hoặc lo lắng nhiều tháng và gặp phải nhiều triệu chứng liên quan tới lo âu. Các triệu chứng rối loạn lo âu lan tỏa gồm có:

  • Bồn chồn hoặc cảm thấy căng thẳng hoặc bực bội
  • Dễ bị mệt mỏi
  • Khó tập trung hoặc đầu óc trống rỗng.
  • Cáu giận
  • Căng cứng cơ
  • Khó khống chế sự lo lắng
  • Những vấn đề về giấc ngủ (khó đi vào giấc ngủ hoặc khó giữ được giấc ngủ hoặc ngủ không yên giấc, ngủ không ngon)

Rối loạn hoảng sợ

Người bị rối loạn hoảng sợ có những cơn hoảng sợ không mong đợi tái diễn, tức là những đợt lo sợ căng thẳng bất ngờ có thể gồm hiện tượng trống ngực, tim đập mạnh, nhịp tim tăng nhanh, ra mồ hôi, run rẩy, cảm thấy thở gấp, nghẹt thở hoặc nấc và cảm giác như tai họa sắp xảy ra.

Những triệu chứng của rối loạn hoảng sợ gồm:

  • Các cơn hoảng sợ mãnh liệt đột ngột và lặp lại
  • Cảm giác không thể kiềm chế trong khi cơn hoảng sợ
  • Lo lắng rất nhiều về các cơn kế tiếp sẽ xảy ra
  • Lo sợ hoặc tránh những nơi đã xảy ra những cơn hoảng sợ trước đây

Rối loạn lo lắng xã hội

Người bị rối loạn lo lắng xã hội (đôi khi còn được gọi là “ám ảnh sợ xã hội”) đặc biệt hay sợ hãi về mặt xã hội, trong những tình huống trình diễn trước đám đông mà họ cho rằng họ cảm thấy xấu hổ, bị phán xét, bị chối từ hoặc sợ xúc phạm người khác.

Những triệu chứng của rối loạn lo lắng xã hội gồm có:

  • Cảm thấy rất lo lắng khi có mặt người khác và khó nói chuyện với họ.
  • Cảm thấy rất ngượng ngùng trước mặt người khác và lo sợ về cảm giác chế nhạo, xấu hổ hoặc bị chối từ hoặc lo sợ xúc phạm người khác.
  • Sợ người khác phán xét mình
  • Lo lắng nhiều ngày hoặc nhiều tuần trước khi có một sự kiện nào đó có đông người
  • Tránh những nơi có người
  • Khó kết bạn và khó duy trì được tình bạn
  • Bị đỏ mặt, ra mồ hôi hoặc bị run khi có người khác
  • Cảm thấy buồn nôn hoặc bụng nhộn nhạo khi có người khác.

Việc khám nghiệm tình trạng rối loạn lo âu thường bắt đầu bằng việc đi khám ở một cơ sở chăm sóc ban đầu. Một số tình trạng sức khỏe, ví dụ như cường giáp hoặc đường huyết thấp cũng như việc dùng một số thuốc nhất định, có thể gây ra hoặc làm trầm trọng thêm rối loạn lo âu. Việc khám nghiệm kỹ lưỡng sức khỏe tâm thần cũng rất có ích bởi hội chứng rối loạn lo lắng thường đi đôi với những biểu hiện liên quan khác, ví dụ như trầm cảm hoặc rối loạn ám ảnh cưỡng chế.

Yếu tố nguy cơ

Các nhà nghiên cứu đang phát hiện ra rằng những yếu tố di truyềnmôi trường, thường xuyên tương tác với nhau, là những yếu tố có nguy cơ gây ra chứng rối loạn lo âu. Cụ thể là những yếu tố như sau:

  • Nhút nhát hoặc ức chế hành vi thời trẻ
  • Nữ giới
  • Ít có nguồn tài chính
  • Ly hôn hoặc góa vợ/chồng
  • Gặp phải những sự kiện căng thẳng khi còn nhỏ và khi trưởng thành
  • Có người trong họ hàng bị rối loạn lo âu
  • Cha mẹ có tiền sử về rối loạn tâm thần

Lượng cortisol trong nước bọt tăng vào buổi chiều (đặc biệt đối với người bị rối loạn sợ xã hội.

Điều trị và liệu pháp

Chứng rối loạn lo âu thường được điều trị bằng phương pháp tâm lý trị liệu, bằng thuốc hoặc kết hợp cả hai.

Tâm lý trị liệu

Tâm lý trị liệu hay còn gọi là “Liệu pháp nói chuyện” có thể hữu ích với người bị rối loạn lo âu. Để liệu pháp này có hiệu quả, tâm lý trị liệu cần phải nhắm trực tiếp tới những mối lo âu cụ thể của người bệnh và được điều chỉnh phù hợp với từng người. Một dạng “tác dụng phụ” điển hình của tâm lý trị liệu là trạng thái bất ổn nhất thời liên quan tới suy nghĩ về việc phải đối mặt với những tình huống sợ hãi.

Liệu pháp hành vi nhận thức (CBT)

CBT là một loại liệu pháp tâm lý có thể giúp cho người bị rối loạn lo âu. Biện pháp này dạy cho người ta những cách suy nghĩ, cách đối xử và phản ứng khác nhau đối với những tình huống gây ra sự lo lắng và sợ hãi. CBT cũng có thể giúp người ta học và thực hành những kỹ năng xã hội, là những kỹ năng rất quan trọng trong việc điều trị rối loạn lo âu.

Có hai thành phần độc lập đặc hiệu trong CBT được dùng để điều trị rối loạn lo lắng là liệu pháp nhận thức và liệu pháp tiếp xúc. Liệu pháp nhận thức tập trung vào việc xác định, đấu tranh và rồi trung hòa những ý nghĩ vô ích gây ra chứng rối loạn lo âu.

Liệu pháp tiếp xúc tập trung vào việc đối đầu với nỗi sợ hãi trong rối loạn lo âu nhằm giúp người ta tham gia vào những hoạt động mà họ đang muốn tránh. Liệu pháp tiếp xúc được sử dụng cùng với những bài tập thể dục thư giãn và/hoặc sự tưởng tượng. Trong một nghiên cứu, được gọi là đa phân tích bởi nó tập hợp tất cả những nghiên cứu từ trước tới nay và tính toán những số liệu thống kê về mức độ hiệu quả kết hợp cho thấy liệu pháp nhận thức có lợi thế hơn so với liệu pháp tiếp xúc trong việc điều trị chứng lo lắng xã hội.

CBT có thể thực hiện với từng cá nhân hoặc với một nhóm người có các vấn đề như nhau. Liệu pháp nhóm có hiệu quả đặc biệt đối với chứng rối loạn lo âu. Thường những người tham gia luôn được ra “bài tập về nhà” giữa hai lần trị liệu.

Những nhóm hỗ trợ và tự giúp bản thân

Một số người bị chứng rối loạn lo âu có thể có lợi ích thông qua việc gia nhập vào một nhóm hỗ trợ hoặc tự giúp bản thân và chia sẻ những vấn đề cũng như những gì đã đạt được với những người khác. Những nhóm chat trên mạng internet cũng có thể hữu ích, nhưng bất cứ lời khuyên nào trên internet cũng phải được xem xét cẩn thận khi thực hiện bởi những người bạn trên internet thường là chưa bao giờ gặp nhau và bị nhầm lẫn người này với người kia thường xảy ra. Trò chuyện với những người bạn đáng tin cậy hoặc các chức sắc tôn giáo cũng có tác dụng hỗ trợ, nhưng đây không nhất thiết là một sự lựa chọn đủ để thay thế cho việc chăm sóc từ một bác sĩ chuyên khoa.

Những kỹ thuật quản lý căng thẳng thần kinh

Những kỹ thuật quản lý căng thẳng thần kinh và việc duy trì sự yên tĩnh cho đầu óc (thiền) có thể giúp người bị chứng rối loạn lo âu tự bình tĩnh và có thể giúp gia tăng hiệu quả của việc điều trị. Mặc dù có bằng chứng cho thấy tập thể dục aerobic có hiệu ứng làm dịu tinh thần, nhưng chất lượng của những nghiên cứu này chưa thực sự đủ mạnh để có thể coi đây là một hình thức điều trị. Do caffeine, một số thuốc bất hợp pháp và một vài loại thuốc cảm bán tại các cửa hàng thuốc có thể làm gia tăng triệu chứng của rối loạn lo âu nên cần tránh những loại chất và thuốc này. Hãy tham khảo ý kiến của các bác sĩ hoặc dược sĩ trước khi muốn dùng thêm bất cứ loại thuốc nào.

Gia đình cũng có thể có vai trò quan trọng trong việc phục hồi của một người bị rối loạn lo âu. Lý tưởng là gia đình nên hỗ trợ nhưng không nên giúp duy trì mãi các triệu chứng của người thân mình.

Thuốc

Thuốc không chữa được chứng rối loạn lo âu mà thường làm giảm nhẹ triệu chứng. Thuốc cần phải do một bác sĩ kê đơn.

Đôi khi, người ta sử dụng thuốc để điều trị rối loạn lo âu giai đoạn đầu hoặc dùng khi người bệnh không đáp ứng tốt với liệu pháp tâm lý. Trong một số nghiên cứu cho thấy đối với những bệnh nhân thông thường thì việc kết hợp giữa tâm lý trị liệu với thuốc cho kết quả tốt hơn so với chỉ áp dụng một trong hai hình thức điều trị.

Những loại thuốc thông thường nhất dùng cho điều trị rối loạn lo âu là thuốc chống trầm cảm, chống lo âuthuốc chẹn Beta (Tham khảo mục “Thuốc cho sức khỏe tâm thần”). Cần lưu ý rằng một số loại thuốc chỉ có tác dụng nếu được uống thường xuyên và nếu ngừng uống, triệu chứng sẽ trở lại.

Thuốc chống trầm cảm

Thuốc chống trầm cảm được sử dụng để điều trị trầm cảm nhưng cũng có tác dụng trong việc điều trị rối loạn lo âu. Từ khi bắt đầu uống cho tới khi có tác dụng phải mất độ vài tuần và có thể có tác dụng phụ như đau đầu, buồn nôn hoặc khó ngủ. Tác dụng phụ này thường không trở thành vấn đề đối với hầu hết những người sử dụng, đặc biệt nếu liều mới bắt đầu uống thấp và tăng dần sau đó.

Xin lưu ý: Mặc dù các loại thuốc chống trầm cảm an toàn và hiệu quả với nhiều người nhưng chúng có thể nguy hiểm đối với trẻ em, thanh thiếu niên. Một cảnh báo “hộp đen” – cảnh báo nghiêm trọng nhất đối với bất cứ loại thuốc kê đơn nào, được gắn nhãn vào các loại thuốc chống trầm cảm. Nhãn cảnh báo nói rằng các loại thuốc trầm cảm có thể khiến người ta tự sát hoặc có ý định muốn tự sát. Vì lý do này mà bất cứ ai uống thuốc chống trầm cảm cũng cần phải được giám sát cẩn thận, đặc biệt là khi mới bắt đầu uống.

Thuốc chống lo âu

Thuốc chống rối loạn lo lắng giúp giảm triệu chứng lo âu, các cơn hoảng loạn hoặc sợ hãi và lo lắng thái quá. Các loại thuốc chống rối loạn lo lắng thông thường nhất được gọi là Benzodiazepines. Benzodiazepines là lựa chọn điều trị đầu tiên cho rối loạn lo âu lan tỏa. Với chứng rối loạn sợ hãi hoặc ám ảnh sợ hãi xã hội (rối loạn lo lắng xã hội), thì Benzodiazepines thường là lựa chọn thứ hai, sau các loại thuốc chống trầm cảm.

Thuốc chặn Beta

Thuốc chặn Beta, ví dụ như Propranolol và Atenolol, là những loại thuốc có tác dụng trong điều trị các triệu chứng của cơ thể do lo lắng, đặc biệt là đối với lo lắng xã hội. Các bác sĩ thường kê loại thuốc này để khống chế tim đập nhanh, run rẩy và đỏ mặt trong những tình huống gây ra sự lo lắng.

Để chọn được đúng loại thuốc, liều và phác đồ điều trị cần phải dựa trên nhu cầu của người bệnh cũng như tình trạng bệnh tật và phải được thực hiện với sự theo dõi của chuyên gia. Chỉ có bác sĩ chuyên khoa mới có thể giúp bạn quyết định được liệu có đáng sử dụng loại thuốc đó sau khi cân nhắc giữa tác dụng và tác dụng phụ của thuốc. Và bác sĩ có thể dùng thử vài loại thuốc trước khi tìm ra loại thuốc phù hợp nhất cho bạn.

Bạn và bác sĩ của bạn nên trao đổi với nhau những điểm sau:

  • Các loại thuốc có tác dụng tốt như thế nào hoặc có thể có tác dụng để cải thiện triệu chứng bệnh của bạn ra sao
  • Lợi ích và tác dụng phụ của mỗi loại thuốc
  • Những mối nguy hại do tác dụng phụ nguy hiểm do tiền sử bệnh tật của bạn
  • Khả năng việc sử dụng thuốc khiến bạn phải thay đổi lối sống
  • Chi phí của mỗi loại thuốc
  • Những liệu pháp thay thế khác, thuốc, vitamin và thực phẩm chức năng bạn đang sử dụng và ảnh hưởng của những loại dược phẩm này đối với việc điều trị như thế nào.
  • Cách dừng các loại thuốc như thế nào. Một số loại thuốc không thể ngừng ngay lập tức mà cần phải giảm liều từ từ dưới sự giám sát của bác sĩ.

Để biết thêm chi tiết, xin mời truy cập trang web yhoccongdong.com hoặc hỏi ý kiến các chuyên gia y tế. Xin lưu ý, những thông tin về dược phẩm trên trang web này được đăng tải với mục đích phổ biến kiến thức cơ bản và có thể đã cũ.

Hãy tham gia vào các cuộc thử nghiệm lâm sàng

(Hiện chưa phát triển ở Việt Nam)

Các cuộc thử nghiệm lâm sàng là những nghiên cứu để tìm cách mới nhằm ngăn ngừa, phát hiện và điều trị các loại bệnh hoặc triệu chứng, trong đó có chứng rối loạn lo âu. Trong quá trình thử nghiệm lâm sàng, việc điều trị có thể là việc sử dụng các loại thuốc mới hoặc cách kết hợp mới các loại thuốc, phương pháp mổ mới hoặc những thiết bị mới, cách thức mới đối với những liệu pháp đã có.

Mục đích của những thử nghiệm lâm sàng là để xác định xem liệu cách điều trị mới này có hiệu quả hoặc có an toàn hay không. Mặc dù những người tham gia những thử nghiệm này có thể được hưởng lợi từ quá trình thử nghiệm, những những ai tham gia cần biết rằng mục tiêu ban đầu của thử nghiệm lâm sàng là để thu được những kiến thức khoa học mới để có thể giúp cho những bệnh nhân khác trong tương lai.

Xin lưu ý: Nếu bạn nghĩ mìn bị rối loạn lo âu thì việc tham gia vào thử nghiệm lâm sàng không thay thế được cho việc điều trị với những chuyên gia y tế có bằng hành nghề.

Làm thế nào để tìm được những đợt thử nghiệm lâm sàng tại NIMH/NIH?

Các nhà khoa học tại NIH tiến hành nghiên cứu trong một loạt các lĩnh vực, kể cả nhận thức, di truyền, dịch tễ học và tâm thần. Những nghiên cứu này được thực hiện tại NIH Clinical Center (Trung tâm lâm sàng) tại Bethesda, bang Maryland và yêu cầu bệnh nhân phải tới điều trị thường xuyên. Sau việc phỏng vấn ban đầu qua điện thoại, bạn sẽ được hẹn tới trung tâm và gặp gỡ với một bác sĩ lâm sàng. Hãy tới Trung tâm thử nghiệm lâm sàng – Tham gia hoặc tham dự vào nghiên cứu (NIMH Clinical Trials – Participants or Join a Study) để có những thông tin chi tiết hơn.

Làm thế nào để tìm được những thử nghiệm tiến hành gần nơi tôi sinh sống?

Để tìm được một thử nghiệm lâm sàng gần nơi bạn sống, hãy truy cập trang web ClinicalTrials.gov. Đây là một cơ sở dữ liệu cho ra những số liệu về những cuộc thử nghiệm lâm sàng được chính phủ liên bang cũng như tư nhân hỗ trợ ngân sách trên toàn nước Mỹ và trên thế giới. Trang ClinicalTrials.gov sẽ cung cấp cho các bạn những thông tin về mục đích của thử nghiệm, địa điểm và số điện thoại để bạn có thể gỏi thêm chi tiết. Cần tham khảo ý kiến của các chuyên gia y tế khi muốn sử dụng những thông tin này.

Tài liệu tham khảo

http://www.nimh.nih.gov/health/topics/panic-disorder/index.shtml

Biên dịch - Hiệu đính

TS.BS. Nguyễn Ngọc Hòa - Phạm Lan Anh
Đánh giá:

Bài viết liên quan

Viêm cơ – viêm đa cơ và viêm da cơ

(39)
Biên dịch: Ths.BS. Phan Hoàng Phương Khanh Hiệu đính: BS. Minh Ngọc Viêm đa cơ và viêm da cơ là các bệnh lý của mô liên kết đặc trưng bởi tình trạng viêm cơ. ... [xem thêm]

Sa sút trí tuệ (Dementia)

(78)
Sa sút trí tuệ là gì? Sa sút trí tuệ không phải một căn bệnh chuyên biệt mà là một nhóm gồm nhiều triệu chứng khác nhau, có ảnh hưởng nghiêm trọng đến ... [xem thêm]

Đau dây thần kinh sinh ba

(52)
Dây thần kinh sinh ba là gì? Các dây thần kinh sinh ba (còn gọi là dây thần kinh số V hay dây thần kinh sọ thứ năm) là một trong những dây thần kinh chính ... [xem thêm]

Tự kỷ – Những điều cần biết

(38)
Tự kỷ là gì? Tự kỷ là một rối loạn thuộc nhóm các rối loạn về phát triển nghiêm trọng còn được gọi là những rối loạn phổ tự kỷ, xuất hiện ... [xem thêm]

Rối loạn vận động trong bệnh teo đa hệ thống

(26)
Bệnh teo đa hệ thống (multiple system atrophy – MSA) là một bệnh thoái hóa thần kinh, tăng tiến dần với các triệu chứng của parkinson, thất điều tiểu não, suy ... [xem thêm]

Tự kỷ được chẩn đoán như thế nào?

(29)
Chuẩn bị cho cuộc hẹn với bác sĩ Bác sĩ của con bạn sẽ tìm các vấn đề về phát triển tại những lần khám sức khỏe định kỳ. Nếu trẻ biểu hiện ... [xem thêm]

Khái niệm tự kỷ và yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh tự kỷ

(54)
Tự kỷ là gì? Tự kỷ là một rối loạn thuộc nhóm các rối loạn về phát triển nghiêm trọng còn được gọi là những rối loạn phổ tự kỷ, xuất hiện ... [xem thêm]

Viêm não

(69)
Viêm não là tình trạng viêm của nhu mô não. Nó thường được gây ra do nhiễm siêu vi (virus). Tại Anh, virus thường gặp nhất gây viêm não là virus herpes simplex. ... [xem thêm]

DANH SÁCH PHÒNG KHÁM BỆNH VIỆN