Các xét nghiệm đông máu

(3.9) - 18 đánh giá

Các xét nghiệm đông máu được sử dụng để chẩn đoán và đánh giá các vấn đề về chảy máu. Ngoài ra còn để theo dõi trên những người sử dụng warfarin hay các thuốc chống đông máu khác.

Các xét nghiệm đông máu (Nguồn ảnh: www.medicaldaily.com)

Thành phần cấu tạo của máu

Huyết tương

Phần dịch lỏng trong máu, chiếm khoảng 60% thể tích máu. Huyết tương được cấu tạo chủ yếu từ nước, nhưng có chứa nhiều loại protein khác nhau và các hợp chất khác như các hormone, các kháng thể, các enzyme, đường, các hạt chất béo, muối,…

Các tế bào máu

Có thể quan sát được dưới kính hiển vi, chiếm khoảng 40% thể tích máu còn lại. Các tế bào máu được sản xuất trong tủy xương từ các tế bào ‘gốc’ máu. Có 3 loại tế bào máu chính:

  • Hồng cầu: Các tế bào hồng cầu là thành phần tạo ra màu đỏ của máu. Mỗi giọt máu chứa khoảng 5 triệu tế bào hồng cầu. Các tế bào này được thay mới thường xuyên khi chúng già đi và bị phân hủy. Có hàng triệu tế bào hồng cầu mới được tạo ra từ tủy xương và đưa vào dòng máu mỗi ngày. Các tế bào hồng cầu đều chứa hợp chất hóa học đặc biệt gọi là haemoglobin (huyết sắc tố) – có khả năng hấp dẫn và gắn kết với phân tử ô xi. Nhờ sự kết hợp này mà các tế bào hồng cầu có khả năng vận chuyển ô xi tới phổi và tất cả các bộ phận cơ thể.
  • Bạch cầu: bao gồm nhiều loại như neutrophils (bạch cầu đa nhân trung tính), bạch cầu đơn nhân, các tế bào lympho, eosinophils (bạch cầu ưa axit), basophils (bạch cầu ưa kiềm). Các tế bào này là một bộ phận trong hệ thống miễn dịch của cơ thể và có nhiệm vụ chủ yếu là chống lại sự nhiễm khuẩn.
  • Tiểu cầu: là những tế bào có kích thước nhỏ, giúp máu đông lại khi chúng ta bị thương.

Cơ chế đông máu

Chỉ trong vài giây sau khi một mạch máu bị cắt, phần mô bị tổn thương này sẽ khiến cho các tiểu cầu trong máu kết dính và vón lại với nhau xung quanh vết cắt. Những tiểu cầu “được kích hoạt” này và phần mô bị tổn thương giải phóng ra các chất hóa học – được gọi là các yếu tố đông máu – có khả năng phản ứng với các hợp chất và một số loại protein khác trong huyết tương, tạo ra một chuỗi các phản ứng hóa học phức tạp và diễn ra nhanh chóng xung quanh vết cắt. Có tất cả 13 yếu tố đông máu được biết đến và được gọi bằng số La Mã – từ yếu tố I đến yếu tố XIII.

Bước cuối cùng của chuỗi phản ứng hóa học này là sự hình thành các sợi mỏng (là tập hợp của một loại protein bền vững tên là fibrin) từ sự biến đổi yếu tố I (còn gọi là fibrinogen – một loại protein hòa tan). Các sợi fibrin này tạo thành một chiếc lưới, bẫy các tế bào máu và tiểu cầu, tạo thành cục máu đông.

Một cục máu đông tự nhiên hình thành trong mạch máu khỏe mạnh có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng. Vì vậy, trong máu cũng tồn tại những hợp chất hóa học ngăn ngừa sự hình thành các cục máu đông và các hợp chất hóa học “hòa tan” các cục máu đông này. Sự cân bằng giữa việc hình thành các cục máu đông và ngăn ngừa đông máu luôn được đảm bảo. Thông thường, trừ khi một mạch máu bị cắt hoặc bị phá hủy, sự cân bằng này nghiêng về phía ngăn ngừa hình thành các cục máu đông trong mạch máu.

Các rối loạn về chảy máu

Có một số điều kiện dẫn đến tình trạng bị chảy máu quá nhiều khi mạch máu bị tổn thương hoặc bị cắt, như trong các trường hợp sau:

  • Có quá ít tiểu cầu trong máu (bệnh giảm tiểu cầu) do một số nguyên nhân khác nhau.
  • Do đặc điểm di truyền, cơ thể bạn không tạo ra được một hoặc một vài yếu tố đông máu. Trường hợp được biết đến nhiều nhất là bệnh haemophilia A (bệnh máu khó đông A); xảy ra ở những người không có khả năng tạo ra yếu tố đông máu số VIII.
  • Thiếu vitamin K. Loại protein có vai trò trong việc tạo ra một số yếu tố đông máu, có thể gây ra các vấn đề về chảy máu.
  • Rối loạn trong gan. Bởi vì gan là nơi hình thành hầu hết các yếu tố đông máu – cũng có thể gây ra các vấn đề về chảy máu.

Các rối loạn về đông máu

Đôi khi một cục máu đông hình trong mạch máu kể cả khi không có vết thương hoặc vết cắt, chẳng hạn như các trường hợp sau:

  • Nguyên nhân phổ biến của các cơn đau tim và đột quỵ là do sự hình thành cục máu đông trong động mạch đưa máu đến tim hay não. Đó là do các tiểu cầu trở nên kết dính và vón cục ở gần các mảng xơ vữa (các khối chất béo) trong mạch máu và kích hoạt cơ chế đông máu.
  • Lưu lượng máu chảy chậm có thể khiến sự đông máu dễ dàng hơn so với bình thường. Đây là một yếu tố dẫn đến sự hình thành các cục máu đông ở các tĩnh mạch sâu dẫn đến chứng nghẽn mạch máu (huyết khối tĩnh mạch sâu – DVT), điều này thỉnh thoảng xảy ra ở các tĩnh mạch chân.
  • Do một số đặc điểm di truyền có thể khiến máu đông dễ dàng hơn bình thường.
  • Một số loại thuốc có thể ảnh hưởng đến cơ chế đông máu, hoặc làm tăng số lượng một số yếu tố đông máu, dẫn đến hiện tượng đông máu dễ dàng xảy ra hơn.
  • Rối loạn trong gan đôi khi có thể gây ra các vấn đề về đông máu, bởi gan là nơi hình thành một số hợp chất hóa học có liên quan đến việc ngăn ngừa và hòa tan cục máu đông.

Các xét nghiệm đông máu

Bạn có thể được tư vấn thực hiện các xét nghiệm đông máu trong những trường hợp sau:

  • Nghi ngờ có rối loạn chảy máu. Ví dụ: bạn bị chảy máu rất nhiều từ các vết cắt, hoặc dễ bị bầm tím.
  • Mắc phải một số bệnh gan mà có thể ảnh hưởng đến việc tạo ra các yếu tố đông máu.
  • Trước khi phẫu thuật, trong những hoàn cảnh nhất định, để đánh giá nguy cơ chảy máu trong quá trình phẫu thuật.
  • Nếu có những cục máu đông xuất hiện trong mạch máu mà không có lý do rõ ràng.
  • Nếu bạn uống thuốc chống đông máu như warfarin (để kiểm tra xem liều dùng có đạt mục tiêu đích hay không).

Có nhiều xét nghiệm đông máu khác nhau, việc xét nghiệm nào được chọn phụ thuộc vào hoàn cảnh và các vấn đề nghi ngờ. Các xét nghiệm đông máu bao gồm:

Xét nghiệm công thức máu

Là xét nghiệm thường quy, được sử dụng để đếm số lượng tế bào hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu trong mỗi ml máu. Xét nghiệm này sẽ phát hiện được số lượng tiểu cầu trong máu thấp nếu có.

Xét nghiệm thời gian chảy máu

Xét nghiệm này được thực hiện bằng cách tạo một vết cắt nhỏ trên dái tai hoặc cánh tay và đo thời gian máu ngừng chảy. Khoảng thời gian bình thường là 3 đến 8 phút.

Các xét nghiệm đông máu thông thường

Mẫu máu sau khi lấy được cho vào ống nghiệm có chứa chất chống đông, sau đó được đem đi phân tích trong phòng thí nghiệm. Có thể thực hiện nhiều xét nghiệm, chẳng hạn như các xét nghiệm phổ biến là xét nghiệm PT hay xét nghiệm APTT để kiểm tra hoạt động của các yếu tố đông máu. Các xét nghiệm này được thực hiện bằng cách đo thời gian hình thành cục máu đông sau khi bổ sung một số chất đã kích hoạt vào mẫu máu. Nếu thời gian hình thành cục máu đông dài hơn so với mẫu máu bình thường thì có nghĩa là một hoặc nhiều yếu tố đông máu ở mức thấp hoặc không có trong mẫu xét nghiệm. Những xét nghiệm này có cơ chế tương tự, chỉ khác ở thành phần các chất hóa học được bổ sung vào mẫu máu, nhằm mục đích xác định yếu tố đông máu nào thấp hoặc không có.

Xét nghiệm để theo dõi sử dụng thuốc chống đông máu

Nếu đang dùng một số loại thuốc chống đông máu (thuốc làm giảm khả năng hình thành cục máu đông) bạn cần theo dõi cẩn thận phản ứng của cơ thể trong quá trình sử dụng. Dùng thuốc quá nhiều có thể gây ra các vấn đề về chảy máu, sử dụng thuốc với liều lượng quá ít có thể làm tăng nguy cơ hình thành các cục máu đông. Xét nghiệm INR là xét nghiệm được sử dụng để theo dõi liều lượng thuốc (thường là warfarin) cho người dùng. Chỉ số INR của bạn được tính toán trong phòng thí nghiệm bằng cách sử dụng xét nghiệm PT như đề cập ở trên. Bác sĩ hoặc y tá sẽ thiết lập một mức INR ‘đích’ cho bạn, tùy thuộc vào lý do bạn sử dụng thuốc. Bằng cách kiểm tra máu của bạn đều đặn, họ có thể tư vấn điều chỉnh liều thuốc để đạt được mức INR ‘đích’ này.

Xét nghiệm các yếu tố đông máu cụ thể

Số lượng của nhiều yếu tố đông máu (và các yếu tố chống đông máu) trong máu có thể được xác định bằng một số kỹ thuật khác nhau. Bạn có thể cần phải thực hiện một hoặc nhiều xét nghiệm loại này khi xét nghiệm đông máu thông thường của bạn cho thấy kết quả có vấn đề với tình trạng máu đông. Ví dụ: xác định số lượng yếu tố VIII trong mẫu máu để kiểm tra bạn có bị bệnh Haemophili A hay không (đối với những người bị bệnh Haemophili A thì yếu tố này ở mức rất thấp hoặc không có).

Xét nghiệm khả năng tiểu cầu ngưng kết

Xét nghiệm này được sử dụng để đo tốc độ và mức độ các tiểu cầu kết tủa lại (ngưng kết) sau khi bổ sung một chất hóa học thúc đẩy quá trình ngưng kết vào mẫu máu. Xét nghiệm này được sử dụng để kiểm tra chức năng của tiểu cầu.

Xét nghiệm kiểm tra tình trạng máu dễ đông

Nếu bạn có một cục máu đông bất thường hình thành trong một mạch máu bình thường, bạn có thể cần thực hiện một số xét nghiệm để xác định nguyên nhân. Ví dụ: xét nghiệm máu kiểm tra ‘yếu tố V Leiden’. Đây là một sự thay đổi bất thường của yếu tố V – khiến cho các cục máu đông dễ hình thành hơn.

Các xét nghiệm khác

Có nhiều tình trạng khác có thể ảnh hưởng đến sự đông máu như do thiếu vitamin, do bệnh bạch cầu, rối loạn trong gan, hoặc nhiễm trùng. Vì vậy, trong một số trường hợp, các xét nghiệm khác là cần thiết để tìm ra nguyên nhân dẫn đến số lượng bất thường của tiểu cầu hoặc của các yếu tố đông máu.

Chú giải

Wafarin là một loại thuốc chống đông máu, có tác dụng làm kéo dài thời gian cần thiết để máu đóng cục. Cơ chế hoạt động của thuốc là làm giảm tác động của vitamin K – loại vitamin cơ thể sử dụng trong quá trình đông máu (Tài liệu tham khảo: http://www.patient.co.uk/medicine/warfarin-an-anticoagulant-marevan )

Tài liệu tham khảo

http://www.patient.co.uk/health/blood-clotting-tests

Biên dịch - Hiệu đính

Ths. Vũ Thị Hồng Dương - BS. Nguyễn Phương Thảo
Đánh giá:

Bài viết liên quan

Điện não đồ (EEG)

(15)
Điện não đồ là một thử nghiệm hữu ích để giúp chẩn đoán bệnh động kinh. Nó ghi lại hoạt động điện của não. Tuy nhiên, một kết quả điện não ... [xem thêm]

Đo chức năng hô hấp tại nhà

(39)
Tên kĩ thuật y tế: Đo chức năng hô hấp tại nhàBộ phận cơ thể/Mẫu thử: PhổiTìm hiểu chungĐo chức năng hô hấp tại nhà là gì?Đo chức năng hô hấp tại ... [xem thêm]

Cholesterol và triglycerid

(93)
Tên kĩ thuật y tế: Xét nghiệm cholesterol và tryglyceridBộ phận cơ thể/mẫu thử: MáuTìm hiểu chungXét nghiệm cholesterol và triglycerid là gì?Xét nghiệm cholesterol ... [xem thêm]

Nội soi ổ bụng: chẩn đoán và phẫu thuật

(54)
Nội soi ổ bụng chẩn đoán là một phẫu thuật sử dụng một dụng cụ đặc biệt gọi là đèn soi với mục đích là thám sát ổ bụng hoặc thực hiện các thao ... [xem thêm]

Kích thích và ức chế u tủy thượng thận

(64)
Tên kĩ thuật y tế: Xét nghiệm kích thích và ức chế u tủy thượng thận (xét nghiệm ức chế clonidine (CST), xét nghiệm kích thích glucagon)Bộ phận cơ thể/Mẫu ... [xem thêm]

Đo nhãn áp

(92)
Tên kỹ thuật y tế: Đo nhãn ápBộ phận cơ thể/Mẫu thử: MắtTìm hiểu chungĐo nhãn áp là gì?Đo nhãn áp là kỹ thuật đo áp suất bên trong mắt của bạn, ... [xem thêm]

CMV

(94)
Tên kĩ thuật y tế: Xét nghiệm CMV (Cytomegalovirus [CMV])Bộ phận cơ thể/Mẫu thử: MáuTìm hiểu chungXét nghiệm CMV là gì?Xét nghiệm CMV là xét nghiệm nhằm kiểm ... [xem thêm]

Hormone tăng trưởng (hormone GH)

(92)
Tên kỹ thuật y tế: Xét nghiệm hormone tăng trưởng (hormone GH)Bộ phân cơ thể/Mẫu thử: MáuTìm hiểu chungXét nghiệm hormone tăng trưởng (GH) là gì?Hormone tăng ... [xem thêm]

DANH SÁCH PHÒNG KHÁM BỆNH VIỆN